Giá Lúa Hiện Nay Đồng Bằng Sông Cửu Long

Giá Lúa Hiện Nay Đồng Bằng Sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một vùng rộng lớn có đất đai màu mỡ nằm tận cùng phía nam Việt Nam.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một vùng rộng lớn có đất đai màu mỡ nằm tận cùng phía nam Việt Nam.

Vĩnh Long là một tỉnh nằm ở trung tâm khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Vĩnh Long nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, giáp các tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp về phía bắc, Bến Tre về phía đông, Trà Vinh về phía đông nam, Hậu Giang, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ về phía tây và nam.

Vĩnh Long là một tỉnh nằm ở trung tâm khu vực của các tỉnh miền tây, có thể được xem là trung tâm của ngã sáu đi trực tiếp đến 8 tỉnh thành phố trong vùng. Đó là quốc lộ 1A đi qua Tiền Giang, Long An và thành phố Hồ chí Minh theo hướng bắc và đi Cần Thơ theo hướng Nam, quốc lộ 80 đi Sa Đéc, An Giang, quốc lộ 30 Cao lãnh và vùng Đồng Tháp Mười, quốc lộ 57 đi Bến Tre và quốc lộ 53 đi Trà Vinh

Dân số và các đơn vị hành chính

Theo kết quả điều tra 2011, dân số tỉnh Vĩnh Long là 1.028.600 người.

Vĩnh Long có 1 thành phố và 7 huyện là

Tỉnh Vĩnh Long có 107 đơn vị cấp xã gồm 7 phường, 6 thị trấn và 94 xã

Tỉnh có 119.000 ha đất nông nghiệp, sản lượng lương thực 950.000 tấn/năm. 90% hộ gia đình làm nghề nông

Bên cạnh đó Vĩnh Long còn có các khu công nghiệp và đặc biệt là Cù lao Sân Bay nằm giữa sông Tiền sẽ cất cánh đưa Vĩnh Long bay xa.

Vĩnh Long là một trong những tỉnh liên tục đứng ở vị trí tốp đầu về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong bảng xếp hạng những năm gần đây

Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất Đông Nam Á, là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam với diện tích tự nhiên 4.092,2 nghìn ha, trong đó 2.575,2 nghìn ha đất dùng cho sản xuất nông nghiệp, chiếm 62,9% tổng diện tích đất tự nhiên của cả vùng. Phần lớn diện tích đồng bằng được bồi đắp phù sa hằng năm, rất màu mỡ, nhất là dải đất phù sa ngọt dọc sông Tiền và sông Hậu cùng với mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, tạo điều kiện thuận lợi cung cấp nước cho sản xuất lúa. Với những lợi thế đó, Đồng bằng sông Cửu Long tập trung sản xuất lúa và trở thành vựa lúa số một cả nước.

Diện tích gieo trồng lúa của vùng luôn đứng đầu cả nước, trung bình chiếm 52% diện tích gieo trồng lúa của cả nước. Năm 2000, diện tích gieo trồng lúa của toàn vùng đạt 3.945,8 nghìn ha, chiếm 51,5% diện tích trồng lúa của cả nước, năm 2015 tăng lên 4.301,5 nghìn ha, chiếm 55% và đến năm 2020 là 3.963,7 nghìn ha, chiếm 54,5%. Ngành lúa gạo của Đồng bằng sông Cửu Long đã không ngừng áp dụng cải tiến giống cây trồng, thay đổi từ giống lúa năng suất thấp chỉ đạt 2-3 tấn/ha sang các giống lúa cao sản chất lượng cao đạt 6-8 tấn/ha. Năng suất lúa của vùng hầu hết các năm đều cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Sự thay đổi mùa vụ từ 1-2 vụ/năm sang 3 vụ lúa chính/năm cùng với đổi mới cơ cấu giống lúa và quy trình sản xuất theo hướng thâm canh tăng năng suất. Nhờ đó, năng suất lúa từng vụ và cả năm ở vùng tăng dần qua các năm. Năng suất lúa năm 2015 đạt 59,5 tạ/ha, cao hơn 1,9 tạ/ha so với năng suất chung của cả nước, năm 2020 đạt 60,1 tạ/ha, cao hơn 1,4 tạ/ha. Đặc biệt vụ đông xuân năm 2021, Đồng bằng sông Cửu Long đạt 72 tạ/ha, cao hơn 3,7 tạ/ha năng suất vụ đông xuân cả nước. Một số địa phương có năng suất lúa đông xuân năm 2021 đạt cao: Hậu Giang đạt 78,2 tạ/ha; Phú Yên đạt 77,9 tạ/ha; Bạc Liêu đạt 77,3 tạ/ha; Kiên Giang đạt 76,2 tạ/ha; An Giang đạt 74,7 tạ/ha; Đồng Tháp đạt 73,2 tạ/ha. Tính chung 20 năm từ 2000-2020, năng suất lúa bình quân toàn vùng tăng thêm 17,8 tạ/ha, làm tăng thêm hơn 7 triệu tấn lúa, chiếm gần 70% tổng sản lượng lúa tăng thêm của cả nước. Bên cạnh cải tiến giống lúa, công tác cải tạo thủy lợi xả phèn, rửa mặn, cải tạo đất hoang hóa, chủ động trong tưới tiêu, tạo tiền đề cho các giống lúa thích nghi phát triển và đẩy mạnh công tác khuyến nông, nâng cao trình độ sản xuất của bà con nông dân đã góp phần nâng sản lượng lúa của vùng từ 12,8 triệu tấn năm 1995 lên 23,8 triệu tấn năm 2020. Đóng góp lớn vào sản lượng lúa của vùng là 3 tỉnh Kiên Giang, An Giang và Đồng Tháp, sản lượng lúa của 3 địa phương này chiếm tới gần 50% sản lượng lúa toàn vùng. Trong đó, lúa đông xuân có sản lượng cao nhất trong 3 vụ lúa chính đóng góp khoảng 44% sản lượng lúa cả năm. Thành công của vụ lúa đông xuân đóng góp lớn đến thắng lợi của sản xuất lúa trong vùng. Vụ đông xuân năm 2021, Đồng bằng sông Cửu Long đạt 10,94 triệu tấn, tăng 365,5 nghìn tấn so với vụ đông xuân trước, chiếm 53,2% sản lượng lúa đông xuân của cả nước. Không những tăng nhanh về sản lượng mà chất lượng lúa gạo ngày càng cao, với các loại lúa đặc sản như IR64, OM1490, OM2031, VND95-20, MTC250, IR62032, lúa nàng thơm Chợ Ðào, Jasmine, đặc biệt là ST phục vụ xuất khẩu ngày càng mở rộng, chiếm tỷ trọng lớn về cả diện tích và sản lượng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Đồng bằng sông Cửu Long đã phát huy lợi thế vựa lúa số một cả nước khi đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, góp phần khẳng định vai trò, vị thế xuất khẩu gạo tốp đầu thế giới của Việt Nam; phát triển được giống gạo ST ngon nhất thế giới; đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; tạo công ăn việc làm cho 65% dân cư nông thôn của vùng. Với lợi thế đó, để phát huy được thế mạnh hiệu quả, vùng cần quy hoạch các tiểu vùng sản xuất lúa hàng hóa, tổ chức liên kết sản xuất, tiêu thụ; xây dựng cánh đồng lớn, vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao. Doanh nghiệp tiêu thụ lúa gạo cần đóng vai trò trung tâm liên kết với nông dân và các doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư đầu vào trên cánh đồng lớn; nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, bảo quản và chế biến lúa gạo, trong đó, tập trung nâng cấp, xây dựng hoàn chỉnh các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất lúa, phát triển các công trình giao thông. Mặt khác, cần triển khai hiệu quả chính sách, khuyến khích áp dụng cơ giới hóa vào các khâu sản xuất, thu hoạch, chế biến và bảo quản lương thực. Bên cạnh đó, tập trung nguồn lực, kinh phí đầu tư trọng điểm nhằm nghiên cứu chọn lai tạo, phát triển các giống lúa mới có năng suất, chất lượng và chống chịu tốt, phù hợp tới từng vùng sinh thái; đẩy mạnh áp dụng các kỹ thuật, công nghệ canh tác tiên tiến trong sản xuất lúa để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm; nghiên cứu giảm nhẹ ảnh hưởng biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn, ngập úng và khô hạn tác động đến sản xuất lúa. Thêm vào đó, rà soát, sửa đổi bổ sung các chính sách về thuế đối với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu lúa gạo, nhập khẩu phân bón phù hợp với diễn biến thị trường thế giới để đảm bảo bình ổn giá trong nước và có tích lũy phòng rủi ro. Đồng thời, hỗ trợ đào tạo huấn luyện nông dân để nâng cao tính chuyên nghiệp trong sản xuất lương thực. Phát huy được lợi thế vựa lúa số một cả nước, Đồng bằng sông Cửu Long góp phần vào thành công của sản xuất và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Tiềm năng và một số bất cập của giao thông đường thủy ở ĐBSCL

Phát biểu tại Hội thảo, TS Phan Công Khanh - Giám đốc Học viện Chính trị khu vực IV cho rằng, khái niệm kinh tế sông mới được nêu ra gần đây nhưng hoạt động kinh tế khai thác nguồn lợi từ sông nước thì đã tồn tại từ rất lâu. Sông nước là một đặc trưng tự nhiên và nổi bật ở ĐBSCL. Từ xưa đến nay, hầu như mọi hoạt động sống của cư dân nơi đây đều gắn với sông nước. Không có sông nước thì không có miền Tây Nam bộ. Vì vậy, kinh tế sông (bao gồm các hoạt động kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên sông nước, không gian sông nước) có một vai trò quan trọng, nó tạo ra nhiều nghề nghiệp, sản phẩm đặc trưng của vùng đất. Tuy nhiên, kinh tế sông ĐBSCL hiện nay đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên nước, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nhiều yếu tố bất định khác. ĐBSCL có hệ thống sông ngòi, kênh, rạch chằng chịt, được hình thành bởi 2 hệ thống sông chính là sông Tiền và sông Hậu với tổng chiều dài các tuyến 14.826 km; trong đó, đường thủy nội địa quốc gia là 2.882 km, đường thủy nội địa địa phương 11.944 km. Đây là khu vực có mật độ đường thủy nội địa cao nhất cả nước, có nhiều ưu thế để kết với đường biển, đường bộ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của vùng.

Với đặc điểm vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên trên, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL phải gắn liền với đặc điểm kinh tế vùng để đảm bảo giao thông thuận tiện giữa các tỉnh trong vùng với cả nước và quốc tế. Bên cạnh đó, phát triển hệ thống giao thông theo hướng hiện đại, đảm bảo kết nối đồng bộ giữa các phương thức vận tải, đặc biệt là giao thông đường thủy; đầu tư có trọng điểm các công trình quan trọng, bức thiết mang tính đột phá, đóng vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng. Mặc dù vùng ĐBSCL được các chuyên gia đánh giá là vùng có tiềm năng và nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển vận tải đường thủy, nhưng trên thực tế vận tải đường thủy tại đây còn nhiều bất cập, điển hình là kênh Chợ Gạo - tuyến đường thủy huyết mạnh nối liền các tỉnh miền Tây với TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ. Với nhu cầu hàng hóa tăng cao như hiện nay, lượng ghe/tàu đi qua kênh tăng, phương tiện di chuyển chủ yếu lại là các sà lan có trọng tải lớn, chính vì thế kênh Chợ Gạo thường xuyên bị ách tắc giao thông do lòng sông hẹp và một số đoạn kênh còn cạn và đặc biệt là sạt lở hai bên bờ sông làm cản trở giao thông đường thủy ở Tiền Giang nói riêng và toàn vùng ĐBSCL nói chung.

Kênh chợ Gạo - tuyến giao thông đường thủy quan trọng của các tỉnh ĐBSCL.

Tại vùng bán đảo Cà Mau, giao thông đường thủy bị cản trở chủ yếu do hệ thống cống và đập thủy lợi… có khẩu độ nhỏ được xây dựng tại các cửa sông để kiểm soát nước mặn vào các vùng ngọt hóa… Chính vì thế, nhiều ghe/tàu, sà lan không thể di chuyển qua lại được. Bên cạnh đó, các ghe/tàu, sà lan đi từ Cà Mau đến TP Hồ Chí Minh gặp khó khăn trong việc di chuyển do mực nước sông thấp, dễ mắc cạn… dẫn dến phát sinh nhiều chi phí và thời gian. Đây chính là lý do các doanh nghiệp có nhu cầu vận chuyển hàng hóa tại đây không chọn phương thức vận chuyển đường thủy nội địa, mặc dù chi phí rẻ hơn nhiều, mà lại chọn phương thức vận chuyển đường bộ.

Khai thác và phát triển kinh tế sông ở ĐBSCL

Tại Hội thảo, các nhà khoa học, nhà chuyên môn, nhà quản lý đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm khai thác những lợi thế và phát triển kinh tế sông, nhằm góp phần thúc đẩy vùng ĐBSCL phát triển bền vững. Theo đó, cần thống nhất nhận thức, xác định đúng vai trò của kinh tế sông; xây dựng lộ trình khai thác, phát triển kinh tế sông phù hợp; xây dựng cơ chế quản lý hệ thống sông của vùng ĐBSCL phù hợp với tình hình mới; cần tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng về khai thác lợi thế hệ thống sông, kênh, rạch. Ngoài ra, cần chú trọng hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế sông ở ĐBSCL…

TS Trần Văn Hiếu - Trường Đại học Cần Thơ đề xuất, các địa phương và ngành chức năng cần tìm cách phát triển vận tải thủy, bởi đường sông cũng rất quan trọng nhưng lâu nay chưa được khai thác, đầu tư bằng đường bộ. Tới đây, vận tải đường sông ở ĐBSCL cần nâng cấp các cảng, đầu tư thiết bị dẫn đường, tăng cường nạo vét luồng lạch, phát triển ngành logistics, xây cảng biển quốc tế. Ngoài ra, có giải pháp căn cơ, hiệu quả phát triển bền vững về du lịch đường sông; có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư du lịch trên sông, ven sông. Quản lý tốt việc khai thác tài nguyên cát dưới lòng sông, bởi cát là nguồn tài nguyên khá lớn của các con sông ở ĐBSCL. Mặt khác, cần quản lý tốt nghề nuôi thủy sản trên sông, vừa bảo vệ nguồn nước, vừa phục vụ tốt cho phát triển kinh tế…

Chia sẻ thêm về vấn đề này, PGS.TS Phạm Tiến Đạt - Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Marketing  cho rằng, ở mỗi quốc gia, vai trò của vận tải đường sông trong phát triển kinh tế cũng khác nhau, nhưng đều nhận thấy những lợi ích không thể phủ nhận của vận tải đường sông là động cơ phát triển kinh tế - xã hội, tiết kiệm năng lượng, an toàn, hỗ trợ và kết nối các phương thức vận tải.

Do đó, để phát triển kinh tế sông, PGS.TS Phạm Tiến Đạt cho rằng, các nhà hoạch định chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế sông ĐBSCL cần nghiên cứu kỹ những bài học kinh nghiệm và chính sách phát triển kinh tế sông ở các nước trên thế giới có địa lý tương đồng, vận dụng phù hợp cho bối cảnh thổ nhưỡng, văn hóa, địa chính trị của vùng. Đặc biệt, cần hoàn thiện chiến lược quy hoạch, xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và thể chế chính sách phát triển vận tải đường sông trên phương diện tổng thể cho cả vùng. Cần có các cơ chế chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển vận tải đường sông, tạo thuận lợi tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp, tăng năng suất vận tải, giảm cước phí vận tải, thúc đẩy thị trường vận tải đường sông phát triển, nhanh chóng tham gia vào chuỗi logistics…